Chuyên mục
Tử Vi

BÌNH GIẢI SAO THIÊN CƠ

Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thiên cơ là âm mộc. Tại Đẩu sao Thiên cơ là ngôi sao thứ ba thuộc Nam Đẩu, tại Số sao Thiên cơ theo cung vị thứ hai thuộc Bắc Đẩu, của phép định cục an sao thiên bàn. Chủ về trí tuệ, tư tưởng, anh chị em, hệ thần kinh, hóa khí là thiện, khi hóa Kị sẽ Hung (chủ về thần kinh đầu óc có vấn đề), làm chủ cung Huynh đệ.

Thiên Cơ là mưu sĩ hoặc quân sư. Nên không cần bách quan triều củng, nhưng cần hội hợp các sao mang tính thông minh, tài nghệ như Xương Khúc, Thiên Tài, Long Phượng, Bác Sĩ. Thiên Cơ rất ngại Hoá Kỵ, Thiên Hư, Âm Sát. Thiên Cơ cũng ưa Xương Khúc 2 bên giáp cung, nhưng không ưa Hoả Linh giáp cung khống chế. Trường hợp trước là làm tăng tính thông minh mẫn tiệp. Trường hợp khiến Thiên Cơ tâm tư bất định, vất vả lo lắng, đối phó thiếu hiệu quả với thực tế.

Thiên Cơ đa tài đa nghệ, làm mưu sĩ được, làm con người hành động không hay. Vào nghiên cứu tốt, ở vị thế chỉ huy bình thường.

Lưu niên và đại vận gặp Thiên Cơ, khác với bản mệnh gặp Thiên Cơ. Vì bản mệnh chủ về bản chất một người, còn vận hạn chỉ về những điều có thể gặp phải của một người, cho nên chẳng có tính chất mưu thần quân sư, mà chỉ biểu thị một biến hoá thay đổi. Vì vậy không cần các sao khoa văn hội hợp, cũng không thể trong thời gian ngắn mà biến người ta thành thông minh được.

Tuy vậy tính chất dựa vào quyền thế để phát huy tài năng vẫn còn. Vì vậy Lưu Khôi, Lưu Việt rất giá trị với Thiên Cơ ở cung Mệnh của vận hạn. Nếu Lưu Khôi Lưu Việt ở Tam phương tứ chính xung khởi Khôi Việt của nguyên cục, trong vận hạn này chủ về tài trí của mệnh tạo được phát huy, nhờ được phát huy mà xảy ra biến đổi.

Thiên Cơ của vận hạn cũng ưa Hoá Quyền vì Hoá Quyền là biểu thị ra tranh đấu với đời, tuy không chủ về thành bại hay đột biến, nhưng có tranh đấu tức là có cơ hội tạo thay đổi.Hoá Lộc cũng quan trọng vì nhờ thay đổi mà được tài lộc. Hoá Khoa thì không quan trọng gì, vì chỉ đại biểu cho danh dự nhất thời thôi, chẳng dính dáng đến bản chất Thiên Cơ.

Các sao gây ảnh hưởng xấu tới Thiên Cơ là tứ sát, Hình, Không Kiếp, Thien Hư, Âm Sát, Phá Toái, Triệt Tuần, Đào Hoa, Đại Hao.

Tại Tí và Ngọ, Thiên Cơ nhập miếu, tính linh động và năng lực phân tích rất mạnh. Cần xem các sao khác có khuynh hướng làm mạnh thêm phương diện nào của Thiên Cơ. Nếu các sao hội hợp không đủ tốt, có thể chỉ là nhân viên bán hàng thông thường.

Tại Sửu Mùi, Thiên Cơ lạc hãm, nên tính linh động giảm nhiều, chỉ có thể phát huy năng lực phân tích. Rất nên gặp Xương Khúc, vì làm mạnh thêm năng lực phân tích, có biểu hiện tốt về sự nghiệp. Nếu gặp các sao làm yếu đi khả năng phân tích như Hoá Kỵ, thì giảm luôn tính linh động, phân tích lại không rõ, nên là hạ cách.

Thiên Cợ Tị Hợi là bình cung, tính linh động và phân tích bình thường. Đối cung có Thái Âm hấp dẫn, khiến mệnh tạo hao phí bản thân trong việc theo đuổi người khác giới, năng lực phân tích thành phân tích tâm lý đối phương, thường dịu dàng, quan tâm chăm sóc, cả mưu mẹo..

  1. Thiên Cơ tinh đứng một mình chỉ ở Tí Ngọ, Tỵ, Hợi, Mùi, Sửu;
  2. đi cặp với Thái Âm tại Dần Thân;
  3. đứng với Cự Môn ở Mão Dậu;
  4. đồng cung với Thiên Lương ở Thìn Tuất.

(Dẫn theo trang tuvibinhgiai.com)

Chuyên mục
Tử Vi

CỰ MÔN THÁI DƯƠNG

Cự Môn Thái Dương ở Dần tốt hơn ở Thân. Vì Dần cung Thái Dương quang huy còn mạnh trong khi ở Thân Thái Dương đã về chiều sức không đủ. Câu phú “Cự Nhật Dần Thân quan phong hầu bá” không hẳn là vậy.

Cự Môn có liên hệ nhiều với Thái Dương. Sách Đẩu Số Toàn Thư viết: “Cự Nhật Dần lập Mệnh Thân tiên khu danh nhi thực lộc, Cự Nhật Thân lập Mệnh Dần trì danh thực lộc” nghĩa là Mệnh lập tại Thân Cự Nhật Dần xung chiếu hoặc Mệnh lập tại Dần Cự Nhật xung chiếu cả hai đều danh vị đi trước Lộc tới sau.

Hai cách trên đều có tiền qua chức vị, chức lớn tiền nhiều, chức nhỏ quyền ít không thể do kinh thương mà làm giàu. Rồi một câu khác: “Cự tại Hợi cung, Nhật Mệnh Tỵ thực lộc trì danh, Cự tại Tỵ Nhật Mệnh Hợi phản vi bất giai” nghĩa là Cự đóng Hợi Thái Dương thủ Mệnh Tỵ có tiền rồi có danh, nếu như Cự đóng Tỵ Thái Dương thủ Mệnh tại Hợi thì xấu khó màng đến danh lộc.

Cự Hợi xung chiếu Mệnh khả dĩ kinh thương làm giàu, lớn nhỏ còn tùy các phụ tinh khác.

Cự Nhật luôn là người quang minh chính đại lỗi lạc, nên dễ làm cho người ta hiểu rõ. Ngoài ra, tổ hợp này rất có duyên với người nước ngoài, hoặc là làm việc cùng, hoặc là lấy người ngoại quốc.

Còn một cách khác về liên hệ giữa Cự Môn với Thái Dương: “Cự Tuất, Nhật Ngọ Mệnh viên diệc vi kỳ” An Mệnh tại cung Dần, Cự Môn đóng Tuất, Thái Dương từ Ngọ chiếu xuống, không bị Tuần Triệt làm ngăn trở Thái Dương cách này công danh tài lộc dễ dàng.

(Dẫn theo trang tuvibinhgiai.com)

Chuyên mục
Tử Vi

BÌNH GIẢI SAO ĐÀO HOA

Đào Hoa thuộc Mộc chủ về sự hoan lạc đa tình mà không nên hiện lên khi vận về già chuyển ra buồn thương. Đào Hoa lúc trẻ là đỗ đạt, đám cưới, lúc già là bệnh tật chia ly và đám tang.

Đào Hoa cần Hồng Loan. Đào Hồng vào cung Quan Lộc hanh thông trên hoạn lộ hoặc trên cuộc phấn đấu gầy dựng cơ nghiêp.

Đào Hồng gặp Nhật Nguyệt đa tình phong lưu. Đào Hồng gặp Không Kiếp Đà Kình khó khăn trên duyên tình không muộn vợ muộn chồng thì cũng hai đời chồng vợ.

Đào Hoa có Thiên Đức bay đến thì hoá thành tài nghệ, được người khác giới hoan nghênh. Đào Hoa hội Xương Khúc, thêm Lộc Tồn Hoá Lộc, được người khác giới yeu thích mà có tiền.

Cung Tật gặp Đào Hoa, có bệnh kín của Phụ Nữ, Nam Mệnh là bệnh đường sinh dục.

 

Những câu phú về Đào Hồng:

 

Đào Hồng ngộ Thiên Cơ, đoãn vi sảo họa

(Thiên Cơ gặp Đào Hồng, có hoa tay nhiều năng khiếu nghệ thuật)

Lãng lý Đào Hoa gia Địa Kiếp tam canh tư tưởng giai nhân

(Đào Hoa Địa Kiếp như hoa đào trôi trên sóng, luôn luôn tơ tưởng tình ái, số trai ăn chơi số gái lẳng lơ)

Đào Hoa ngộ Phi Liêm, Nguyễn Tịch tấn triều vi túy khách

(Sao Đào Hoa đứng với Phi Liêm Nguyễn Tịch lúc nào cũng say khướt)

Đào Hoa thủ Mệnh quả thê

(Đào Hoa thủ Mệnh thường xa vợ hoặc hai đời vợ)

Thân hữu Đào Hồng kiêm Thai Tọa nhi công danh khả tất

(Cung Thân có Đào Hồng Thai Tọa sớm muộn rồi cũng công thành danh toại)

Đào Hoa phùng Thiên Mã túng khách vô môi?

(Đào Hoa gặp sao Thiên Mã không mối lái cũng theo người?)

Đào Tang ở Mệnh cung sau trước

Gái lẳng lơ nhỡ bước cầu ô

 

Đào Riêu số gái ai hay

Chồng ra khỏi cửa dắt tay trai vào

 

Thiên Nguyệt Đức gặp Đào tinh

Trai lấy gái đẹp, vợ lành chồng sang

 

Khéo nghề kim chỉ vá may

Hồng Đào Tấu Vũ ở đầy Mệnh cung

Mệnh Đào Thân lại Hồng Loan

Vận phùng Thái Tuế khả hoàn thấy chi

 

Đào Hồng Thai Hỉ trong ngoài

Ngoài gia Binh Tướng gái trai ngang tàng

Đào Hồng cùng Thiên Hình tụ hội

Gái tiết trinh hiền nội tề gia

 

Quan cung hỉ ngộ Đào Hồng

Thiên Di tối kị Không Kiếp lâm vào

 

Thai tinh lại gặp Đào Hoa

Tiền dâm hậu thú mới ra vợ chồng

 

Vợ chồng viễn phối tha hương

Đào Hồng len lỏi vào hàng Thiên Di

 

Kìa nữ mệnh xem tường sau trước

Tử Phá Tham hội ước đa dâm

Thêm Đào Hoa ắt gian truân

Duyên may khó sớm dự phần phượng loan

 

Tham Đào số nữ thường dâm loạn

Ở hãm cung hãy đoán cho tường

Tí Ngọ Mão Dậu ấy phường

Nếu có Tuần Triệt lại phường đoan trinh

 

Mệnh Đào Thân lại Hồng Loan

Hạn phùng Tuế Kiếp phụng hoàng rẽ duyên

Sao Tả Hữu đồng cung gặp gỡ

Mệnh Đào Hoa trước dở sau hay.

 

Đào Hoa Thai Hỉ trong cung

Phá Quân Tướng Phục chiếm xung ở ngoài

Có chị em gái theo trai

Say mê đến nổi hoang thai bỏ mình

(Đây nói về cung bào huynh)

Trong thời Tướng Phá Phục Binh

Ngoài thì Hoa Cái liên minh Đào Hồng

Bản cung đối chiếu tinh tường

Anh em có kẻ tư thông hẳn là

(đây là cung bào)

Phu Đào Kị Kiếp Khốc Hư

Hại chồng mưu kế dễ hầu biết sao.

 

Đào Hoa nhi nữ dâm tàng

Tử Phủ nhi nữ lại làng đồng lương

Nô cung Hoa Cái Đào Hồng

Cùng với Phụ Bật chiếu vào cho nên

Chính thê thứ thiếp tiền duyên

Khác nào giây cát sánh bên cõi cù

Đào Hoa Nô lại tương phùng

Vong phu mắc tiếng bất trung ưu phiền

Cung Quan mà gặp Đào Hồng

Thiếu niên đã thỏa tang bồng chí trai

Đào Hồng lại gặp Quí Ân

Cô dì để lại có phần phong lưu

Đào Hồng Tang ngộ sao Thai

Tôn thân có kẻ tính bài loạn phong

Đào Thai hội hợp chớ vương

Phúc cung có gái tìm đường gió trăng

Đào Hồng Hoa Cái nhập môn

Ắt rằng có gái đẹp khôn khác thường

(Dẫn theo trang tuvibinhgiai.com)

Chuyên mục
Tử Vi

Lịch âm dương là gì? Tại sao lịch âm dương lại quan trọng?

Bạn hiểu gì về lịch âm dương? Được biết, lịch âm dương là loại lịch được sử dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Dựa vào lịch âm dương, bạn xác định rõ hôm nay thuộc ngày mấy trong tháng theo dương lịch và âm lịch. Qua đó bạn tiến hành một số việc trọng đại như thờ cúng, khai trương, động thổ làm nhà, kết hôn,… Để hiểu hơn lịch âm dương là gì? Nguồn gốc và giá trị của lịch âm dương. Nhất định quý bạn không được bỏ qua thông tin dưới đây.

Chuyên mục
Tử Vi

BÌNH GIẢI SAO MỘ

Ba sao trọng yếu của vòng Tràng Sinh là: Tràng Sinh, Đế Vượng và Mộ gọi tắt bằng Sinh – Vượng – Mộ. Sinh là sinh ra và lớn lên, Vượng là cường tráng thành thục, Mộ là tiềm tàng, không có nghĩa là chôn đi sinh mệnh hoàn toàn đoạn tuyệt. Chủ sự lầm lẫn, chôn cất, ngu si, đần độn, u mê (VVT), suy bại, bần hàn, lo buồn, lao khổ, xa gia đình, duyên phận bạc bẽo

Mệnh Thân cung không nên đứng vào chỗ có sao Mộ, sự khai triển thành công sẽ khó khăn vất vả hơn. Mộ vào cung Tài Bạch lại hay vì dễ tích súc của cải hơn, dù số nghèo cũng không đến nỗi khổ, số giàu thì bền. Hóa Lộc đóng cung Mộ tiền bạc thiếu linh động phát triển.

Qua kinh nghiệm thì tất cả những cung Mệnh nào đóng vào tứ Mộ cuộc đấu tranh cho sự thành đạt thường khó khăn vất vả hơn như Tử Phá, Tham Vũ, Thiên Phủ, Thiên Tướng…

Gặp Phá Quân tại Thìn Tuất Sửu Mùi là hợp cách. Phá Quân đồng cung với Mộ thì được Mộ khắc chế được tính hung ác, ưa giết chóc, sát phạt mà hoàn lương lại cho Phá Quân (VVT). Đồng cung với Xương Khúc tại Thìn Tuất Sửu Mùi thì là người có cơ mưu, học nhiều, đa tài, phú quí (VVT)

Gặp Hỏa Linh, Không Kiếp tam hợp, xung phá thì nghèo túng, nợ nần, con trai thứ ba, con gái thứ hai sẽ cô đơn, khổ cực, vợ thứ ba khó tránh được hạn họa (VVT)

  • Sớm xa gia đình, thay đổi chỗ ở
  • Lúc nhỏ hay ốm đau gầy yếu, bất hòa với cha mẹ, anh em, nghèo hèn. Gần về già thì làm ăn khá hơn nhưng hay lo buồ Lập gia đình hai lần.
  • Nữ Mệnh thì vợ chồng bất hòa, dễ ly dị
  • Tại Tử thì con cái ít, khổ vì con
  • Tại Phúc ở Tứ Mộ thì rất rực rỡ, tốt đẹp, trong họ có âm phần đã kết phát, ba bốn đời giàu sang vinh hiển (TTL)
  • Gặp Tài tinh thì là người keo bẩn, coi trọng tiền của, không dám chi tiêu ăn xài, bo bo giữ của vì Mộ là chôn cất, giấu đi
  • Vì Mộ là chôn vùi nên có đặc điểm là khi tọa thủ tại cung Phúc Đức thì lại hợp cách, chủ về mồ mả kết phát

Mệnh có Thai hay Mộ thì tuy có học nhưng không đỗ đạt:

Thai tinh, Mộ diệu đa học thiểu thành (2)

Mệnh có Mộ thì đầu óc không sáng suốt, trì trệ nhưng nếu gặp Tuần Triệt thì lại thông minh

Mộ ám tế, Thai đa (nhiều) mê hoặc,

Mộc Dục hay trang sức văn hoa (hay chưng diện)

Chú ý các câu phú liên quan đến Mộ thường có hai khuynh hướng giải thích: Mộ là sao Mộ hoặc Mộ là Tứ Mộ, tức là bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi. Bốn cung này là nơi các bộ sao Tả Hữu, Xương Khúc, Long Phượng, Thai Tọa, Quang Quí thủ đồng cung

Sao Mộ tại Tứ Mộ lại gặp TamThai Bát Tọa thì là người có tài và có danh, nổi tiếng nhưng theo Nguyễn Mạnh Bảo thì Thai Tọa tại Tứ Mộ cung thì văn võ toàn tài:

Thai Mệnh đa học thiểu thành (học nhiều nhưng không thành công),

Mộ gặp Thai Tọa hiển danh anh tài

Mộ Thai Tọa võ văn xuất chúng,

Ngọ (cung Ngọ) Khoa Quyền nhậm trọng phiên hàn (B114)

Hạn gặp sao Mộ tọa thủ đồng cung với Thái Dương thì cha đau nặng hoặc chết:

Mộ Tinh ngộ Nhật, thân phụ nan toàn (13)

Theo Nguyễn Mạnh Bảo thì cung Quan Lộc hay Mệnh ở cung Mộ có Tả Hữu củng chiếu hay thủ thì làm quan cao chức trọng thăng quan tiến chức luôn):

Mộ phương (phùng) Tả Hữu đồng lai,

Thăng quan tiến chức miếu đài nổi danh (B38)

Hạn có Cự hoặc Vũ sáng sủa gặp Hóa Quyền hay Mộ gặp Thai Tọa thì công danh thuận lợi, thăng tiến:

Tiểu hạn Cự Vũ Hóa Quyền,

Hoặc Mộ (sao Mộ) Tả Hữu ấy miền thăng vinh

Hóa Lộc là sao tốt đẹp nhưng cư ở Tứ Mộ Thìn Tuất SửuMùi thì bị chôn vùi, làm giảm tính chất tốt đẹp nên không thể giàu có lớn được, nhưng nếu Mệnh cư Tứ Mộ có Vũ, Tham gặp Lộc thì lại tốt, trở nên giàu có, nhưng phải ngoài 30 mới tốt, nếu phát sớm thì không bền. NMB thì giải thích rằng Hóa Lộc ở Mộ địa thì lại là buồn rầu:

Hóa Lộc hoàn vi hảo,

hưu hướng Mộ trung tàng (35, TTL, B82)

Phúc tại cung Mão có Tử Vi Tham Lang hoặc Tướng Thiên Phủ nếu gặp cát tinh, Tam Hóa thì hưởng phúc bền bỉ, nhưng nếu gặp Triệt Tuần Không Kiếp Kình Đà Mộ thì gặp tai nạn về gươm giáo, mộ của đàn ông bị thất lạc:

Phúc thọ Chấn cung,

Đế (Tử Vi) Tham Tướng Phủ

hạnh phùng cát tú, Tam Hóa giá lâm (mừng gặp Cát tinh, Tam Hóa)

phúc tăng bất tuyệt (hưởng phúc bền bỉ),

hựu kiến Triệt Tuần,

Tứ Sát (sợ gặp Triệt Tuần Không Kiếp Kình Đà) Mộ tinh (sao Mộ),

tất hữu đao thương chi ách (thì gặp tai nạn về gươm giáo),

dương mộ lạc di (mộ của đàn ông bị thất lạc) (84)

Phúc tại cung Mùi có Tứ sát (Không Kiếp Kình Đà) Mộ, lại là tuổi Kỷ mạng Thổ, lại gặp sát tinh cư chiếu, Hóa Kỵ, Lưu Hà thì chết vì sông nước nhưng nếu gặp Sinh Vượng, Long Khoa thì là người đánh cá có tài, gặp Quyền Hình thì là quan tòa coi về phát luật:

Phúc tọa Đỉnh Sơn (cungMùi)

Tứ sát (Không Kiếp Kình Đà) đồng cư

Mộ diệu (sao Mộ), lai Kỷ nhân sinh Mộ (lại là tuổi Kỷ mạng Thổ),

đa cư triều sát diệu (gặp sát tinh cư chiếu),

Kỵ (Hóa Kỵ), Lưu (Lưu Hà) giang đồ ngộ sát (chết vì sông nước),

hạnh kiêm Sinh Vượng,

Long Khoa hiển tài ngư phủ (là người đánh cá có tài)

Quyền Hình tọa củng thừa hành án pháp (quan tòa coi về phát luật) (88)

Cung Phúc Đức tại Sửu có Vũ Tham tọa thủ có Tả Hữu, Long Phượng, Mộ, Bát Tọa thì trong họ con trai làm nên danh giá, gặp Khoa Quyền Lộc, Bạch Hổ , Riêu thì con gái lưu lạc giang hồ mà làm nên danh giá:

Phúc (cung Phúc Đức) tại Sửu cung, cư tọa Tham Vũ, diệc cần Tả Hữu Phượng Long (Long Trì) Mộ Tọa (Bát Tọa) nam hiển danh tài , lai (gặp) Tam Hóa (Khoa Quyền Lộc) Hổ (Bạch Hổ) Riêu Nữ tất giang hồ hiển hách danh giá ( 30)

Cung Phúc Đức có Tham Vũ đồng cung gặp Mộ thì bốn đời được hiển vinh, bản thân cũng làm nên danh giá. Đây là trường hợp Mệnh Tử Vi Thất Sát tại Tỵ Hợi Tham Vũ đồng hành cư Phúc hạnh phùng Mộ tinh (mừng gặp sao Mộ), tứ đại hiển vinh (45)

(Dẫn theo trang tuvibinhgiai.com)

Chuyên mục
Tử Vi

THẤT SÁT TRÙNG PHÙNG, DƯƠNG ĐÀ DIỆT TỊCH

Thất Sát lâm ư thân mệnh, phùng Dương Nhẫn tất định trận vong.

(Thất Sát vào cung Thân Mệnh, gặp Dương Nhẫn chắc chắn trận vong)

Chú văn nói rằng: “Nếu cung mệnh có Thất Sát, Lưu niên Thái Tuế có Hình Kỵ cùng vào, ắt chủ về tai nạn, bệnh hoạn, kiện tụng, án phạt, khẩu thiệt.”

Từ tiết này trở đi, chủ yếu là luận về sự ứng nghiệm của lưu niên (Ở những tiết trước có hai trường hợp “Hình Sát hội Liêm”, “Quan Phù giáp Hình” cũng có liên quan đến lưu niên, có điều là chưa phải chuyện luận về lưu niên).

Còn tiết này ứng nghiệm của “Thất Sát trùng phùng” rất nổi tiếng. Một sự ứng nghiệm khác cũng nổi tiếng là “Dương Đà điệt tịnh” (Dương Đà đi song song nhau).

Thất Sát trùng phùn là trường hợp cung mệnh của nguyên cục có Thất Sát tọa thủ, hoặc có Thất Sát ở tam phương hội tụ, lại có Dương Đà hội chiếu, khi lưu niên đến cung vị có Thất Sát tọa thủ, có Lưu Dương, Lưu Đà hội chiếu, lại đồng thời xung với Dương Đà của nguyên cục, như thế là hoàn thành kết cấu “Thất Sát trùng phùng”. (xem hình 115)

Ví dụ như người tuổi Giáp, Phá Quân tọa thủ cung mệnh đóng ở Tý, hội Thất Sát ở Thân. Dương Đà ở Mão và Sửu. Hạn hành đến năm Giáp Thân, cung mệnh của lưu niên là Thất Sát, Lưu Dương Đà cũng ở Mão, Sửu. Nếu hạn hành đến năm Canh Thân, cung mệnh của lưu niên đương nhiên cũng là Thất Sát, nhưng Lưu Dương tại Dậu, Lưu Đà tại Mùi, xung với Dương Đà của nguyên cục, đây cũng có thể coi là Thất Sát trùng phùng, tuy lưu Dương Đà chưa hội chiếu, nên mức độ gây họa nhẹ hơn mà thôi.

Còn về “Dương Đà điệt tịnh”thì ví dụ “hạn hành đến lưu niên Giáp Thân” được nêu ở trên.

Dương Đà nguyên cục và Dương Đà lưu niên trùng hợp với nhau. Nhưng như ví dụ về Canh Thân lưu niên thì chư cấu thành “điệt tịnh”.

Thất Sát trùng phùng thường thường dễ kiêm luôn Dương Đà điệt tịnh. Điều này không nhất thiết tại cung mệnh, nhưng thấy cung lưu niên nào đó gặp cả hai yếu tố này thì cung ấy không tốt. Chẳng hạn như cung phụ mẫu của lưu niên gặp Thất Sát trùng phùng, Dương Đà điệt tịnh thì chủ về cha hoặc mẹ gặp tai nạn hoặc bệnh hoạn.

Nhưng phú văn nói là “tất định trận vong” (chắc chắn trận vong), thì hơi phóng đại một chút, mà chủ về gặp tai nạn hoặc bị thương do vật kim loại mà thôi

Hình 115: Thất Sát trùng phùng và Dương Đà điệt tịnh (gồm 3 ví dụ)

that sat trung phung duong da diet tich 5ec2d3c5761b2that sat trung phung duong da diet tich 5ec2d3c5f295athat sat trung phung duong da diet tich 5ec2d3c690954

(Dẫn theo trang tuvibinhgiai.com)

Chuyên mục
Tử Vi

QUAN ĐIỂM NHẦM LẪN VỀ SAO KHÔNG

Không Vong định yếu đắc dụng, Thiên Không tối vi khẩn yếu.

(Không Vong chắc chắn phải đắc dụng, Thiên Không là quan trọng nhất)

Sao Không trong Đẩu Số gồm Tuần Không, Tiệt Không,Thiên Không, Địa Không. Trong đó Tuần Không và Tiệt Không đều xuất hiện thành đôi, Địa Không và Địa Kiếp là một cặp sao đôi, duy chỉ có Thiên Không là không có đôi.

Theo sự truyền thụ của Trung Châu học phái, thì trong các sao Không, cặp sao Địa Không, Địa Kiếp là quan trọng nhất, ngoài ra là Thiên Không. Trong đó câu phú nói rằng: “Thiên Không là quan trọng nhất” thật ra là không chính xác, rất có thể là do sau khi Đẩu Số truyền bá ra giang hồ, người trong giang hồ đã nhầm lẫn khi cho rằng Thiên Không, Địa kiếp là một cặp sao đôi, nên mới có thuyết ấy.

Thật ra về quan niệm “Không Vong định yếu đắc dụng” (Không Vong chắc chắn phải đắ dụng) thật sự là có vấn đề. Lời chú giải nói rằng: “Giả sử như thân mệnh cung, duy Kim không tắc minh, Hỏa không tắc phát, nhị hạn phùng chi phản vi phúc luận; nhược Thủy không tắc phiếm, Mộc không tắc chiết, Thổ không tắc hãm, vi họa hĩ” (Nếu như cung thân, cung mệnh, Kim rỗng thì kêu, Hỏa trống thì phát, nếu hai hạn gặp trường hợp này thì trái lại phải coi là phúc; còn hư Thủy trống thì tràn lan, Mộc thì gãy, Thổ rỗng thì suy sụp, đây lại là họa), nói như thế đúng là căn cứ vào cách nói của các nhà Tử Bình, do đó lời chú này chắc chắn là do các nhà thuật số đời Thanh thêm vào. Hơn nữa đã nói rằng cung thân, cung mệnh như thế như thế, sau đó lại nói “nhị hạn phùng chi” thành ra mâu thuẫn. Vậy thì Không Vong “định yếu đắc dụng” (chắc chắn phải đắc dụng) ở đây là gặp cung thân cung mệnh, hay là gặp cung mệnh của tiểu hạn, đại hạn? Hiển nhiên phần chú giải câu chú giải của câu phú không rõ ràng.

Nếu theo Trung Châu học phái thì chỉ có chủ tinh (Tử Vi, Thiên Phủ, Thái Dương của người sinh ban ngày, Thái Âm của người sinh ban đêm) là không nên gặp Không, Tài tinh cũng không nên gặp Không, Thiên Mã càng không nên gặp Không. Các sao Không nếu giao hội trùng trùng, thì tính chất của nhóm sao sẽ biến đổi. Đồng thời Trung Châu phái cũng không có quan điểm “Thiên Không tối vi khẩn yếu” (Thiên Không là quan trọng nhất)

“Bát Hỷ Lâu sao bản” cũng có câu này, chỉ không có lời chú giải mà thôi. Như thế chứng cứ có thể do các nhà Đẩu Số cuối Minh đầu Thanh sai lầm và lưu truyền.

(Dẫn theo trang tuvibinhgiai.com)

Chuyên mục
Tử Vi

HOÁ LỘC – THIÊN ĐỒNG

Thiên Đồng là phúc tinh, ngụp lặn trong lãnh vực tinh thần.

Đồng đứng với Hóa Lộc thường được dễ có cuộc sống thoải mái với con người tri túc, Đồng Lộc đi với nhau không đưa đến phú quý. Cái tri túc giống như một con người đã trải trăm cay ngàn đắng nay có cuộc sống đầy đủ bình ổn.

Thiên Đồng Hóa Lộc bị Không Kiếp hay các sát diệu khác thì gian lao vất vả hơn lúc già sự an định hay phấn phát chỉ tương đối.

Đồng Lộc được thêm Lộc Tồn xung chiếu hay tam hợp thì tài khí vượng hẳn, đột nhiên biến đổi từ nghịch sang thuận. Có cả Tả Hữu Khôi Việt nữa càng hay, cơ hội trợ lực càng nhiều và phấn phát không nhỏ.

Đồng Lộc tối kị đồng cư với Không Kiếp, cũng đột biến nhưng mà thuận sang nghịch, dễ dàng vỡ nợ. Trường hợp vừa có Tả Hữu Khôi Việt lại vừa có cả Không Kiếp thì sao? Tả Hữu Khôi Việt không thể địch lại Không Kiếp.

Hóa Lộc Thiên Đồng cũng đừng nên hội với Đào Hoa, nhất là còn thấy thêm cả Xương Khúc nữa thì phiền, sớm muộn gì rồi cũng thành phong lưu đãng tử. Không thiếu tiền, nhưng tiền bao nhiêu rơi vào đĩ bợm hết.

Nói khác đi, đây là số công tử con nhà giàu hoặc là người làm cái nghề “ăn chơi”. Có số này nên mở quán rượu nhà nhảy, nhà tắm hơi hợp cách. Có điều là không bao giờ giữ được của.

Thiên Đồng Hóa Lộc Đào Hoa Xương Khúc vào cung tật ách, trai gái dễ mắc bệnh phong tình. Thiên Đồng Hóa Lộc đóng thê cung trước đắm thắm, sau nhạt tình.

(Dẫn theo trang tuvibinhgiai.com)

Chuyên mục
Tử Vi

Phân tích bổ mệnh

Trời sụp có thể vá, xưa có thuyết Nữ Oa vá trời

Áo rách có thể vá, do có thợ hàn nối

Tình cảm đổ vỡ có thể hàn gắn, do có thuyết “gương vỡ lại lành”

Mệnh không tốt có thể bổ cứu.

Vì sao mệnh có thể bổ cứu?

Vậy phương pháp bổ mệnh như thế nào?

Người xưa dạy chúng ra rằng: “Bán bần bổ mệnh”.

Nguyên lý đơn giản, chỉ có điều khó có thể thực hiện được.

Ví dụ: Bạn lâm vào tình cảnh nghèo khó, thậm chí trong tay chỉ có 2 chiếc bánh ăn không đủ no. Có một người đi đến xin bạn 1 chiếc, bạn tức giận nói: “Tôi chỉ có 2 chiếc, ăn còn không đủ no, sao có thể cho được?”.

Lời nói không sai, nhưng sau khi bạn ăn xong 2 chiếc bánh cũng chỉ khoảng 3 tiếng sau là lại đói. Nếu lúc đó, bạn không do dự cho đi 1 chiếc bánh, ông trời thấy bạn là người nhân từ biết đâu sẽ ban cho bạn thật nhiều bánh và không bao giờ lo bị đói nữa.

Phương pháp này tuy đơn giản nhưng không phải ai cũng làm được. Có rất nhiều người nói rằng “đợi tôi phát tài, tôi sẽ làm việc thiện”. Việc thiện không phải là chỉ có tiền mới làm được, làm việc thiện phải gặp dịp. Khi cơ hội làm việc thiện đến nhưng bạn lại bỏ lỡ, cho dù bạn có lòng bù đắp cũng đã không kịp nữa.

Câu chuyện dưới đây có thể sẽ cho bạn sự gợi ý sâu sắc.

Thời nhà Minh cố 3 tú tài là Trương Đại Lang, Lý Nhị Lang và Ngô Tam Lang cùng lên kinh ứng thí. Khi đi đến Hàng Châu họ nghe nói có một vị được mệnh danh là Trại Gia Cát xem tướng giỏi và chính xác liền cùng nhau đến tìm xem tướng. Trại Gia Cát nói: lần lên kinh ứng thí này có 2 người đỗ đạt cao, duy có cậu (chỉ tay vào Ngô Tam Lang) không những không đỗ mà e rằng sẽ gặp họa trên đường đi mà vong mạng.

Ngô Tam Lang sợ hãi hỏi: “Vậy tôi phải làm thế nào?”

“Hãy lập tức quay về, may ra sẽ được chết ở quê nhà”. Người xưa kỵ nhất chết nơi đất khách quê người, nghĩ vậy Ngô Tam Lang đành phải quay ngựa ngày đêm không nghỉ để về nhà.

Một hôm, khi đi qua một con suối, Ngô Tam Lang gặp một người phụ nữ mang thai, trên lưng cõng một đứa bé chừng 3-4 tuổi muốn nhảy xuống nước tự sát. Ngô Tam Lang vội vã hỏi tại sao lại làm như vậy? Người phụ nữ nói rằng bố chồng đưa cho cô một đĩnh bạc, bảo đi mua gạo. Ông chủ bán gạo nói đó là đĩnh bạc giả. Nếu cô không mua được gạo về chắc chắn sẽ bị bố chồng đánh đập hành hạ, quẫn trí nên cô muốn nhảy xuống nước tự sát.

Sau khi nghe xong Ngô Tam Lang liền bảo “Chị hãy đưa bạc cho tôi xem thử!”. Sau khi xem đĩnh bạc, Ngô Tam Lang nói: “Tôi thấy đĩnh bạc này không phải là giả. Chị hãy đến một tiệm gạo khác mua thử xem sao! Nếu ông chủ nói là bạc giả thì chị quay lại đây tự sát cũng chưa muộn!”. Người phụ nữ nghe lời Ngô Tam Lang mang bạc đi mua gạo.

Ngô Tam Lang đi một chặng đường dài, mệt mỏi muốn tìm chỗ nghỉ ngơi. May mắn bên đường có một ngôi đình hóng mát liền xuống ngựa vào nghỉ và ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Bỗng nhiên Ngô Tam Lang nghe thấy có người gọi to tên mình, giật mình tỉnh giấc chạy ra ngoài nhìn xung quanh nhưng không thấy một bóng người. Ngô Tam Lang nghĩ rằng có thể là mình nằm mơ, định quay lại ngôi đình nằm nghỉ tiếp. Lúc này ngôi đình hóng mát bỗng nhiên đổ sụp xuống. Ngô Tam Lang hoảng sợ nghĩ lại nếu như ban nãy không có người gọi mình tất sẽ bị đè chết. Anh chàng tú tài thông minh biết rằng bản thân đã qua được kiếp nạn nên vội vàng quay lại kinh ứng thí. Đi đến Hàng Châu lại tìm đến Trại Gia Cát hỏi rằng: “Tôi đã thoát khỏi kiếp nạn, nay có thể tiếp tục lên kinh ứng thí được không?”.

Trại Gia Cát kinh ngạc nói: “Cậu không những có thể được đề tên bảng vàng, sau này còn được hưởng phú quý, trường thọ. Chỉ mới có mấy, ngày mà tướng của cậu lại có sự thay đổi nhanh như vậy, ta thật không hiểu nổi. Không biết mấy ngày gần đây cậu có làm việc thiện nào không?”.

Sau khi suy nghĩ hồi lâu, Ngô Tam Lang đem câu chuyện gặp người phụ nữ mang thai muốn tự sát kể lại cho Trai Gia Cát nghe và nói rằng vì muốn cứu mẹ con người phụ nữ đó nên đã ngầm tráo đổi đĩnh bạc.

“Vậy là đúng rồi! Cậu một lần đã cứu sống 3 mạng người, chẳng trách có chuyện kỳ lạ như vậy. Chúc mừng cậu! Lần này chắc chắn cậu sẽ đứng đầu bảng vàng, vinh hoa phú quý, hưởng thọ thiên thu”.

Câu chuyện trên nói rõ một điều rằng, làm việc thiện phải có cơ duyên. Nếu bạn cầm 10 lạng hay thậm chí 100 lạng bạc đi cứu tế người khác cũng không bằng 1 đĩnh bạc có thể cứu 3 mạng người.

Nếu đổi là bạn, bạn có đồng ý đem bạc thật đổi lấy bạc giả không. Bạn thừa thông minh biết rằng nếu làm như vậy là ngốc nghếch. Nhưng bạn cũng nên biết ràng, cứu người như cứu hỏa, không thể chần chừ do dự.

Do đó, hành thiện người người đều biết, nhưng chỉ có điều đôi khi bạn bị chính trí thông minh của mình làm lỡ mất cơ hội.

Trong xã hội ngày nay, nhiều người bị chính trí thông mình của mình lừa gạt, kết quả làm những việc thân bại danh liệt, điều này trách ai đây? Lẽ nào trách mệnh?

Có người bị cổ phiếu cầm tù, có người bị bất động sản chi phối có người thì lại bị sự nghiệp, công xưởng cuốn vào vòng quay bất tận…

Nếu bạn hỏi họ: “Vì sao lại bị trói buộc như vậy?”. Lúc đầu, chính là vì họ quá thông minh, muốn phát tài. Nếu đem tiền đi gửi ngân hàng đâu có bị rơi vào cảnh như vậy. Nhưng họ sẽ tự hỏi rằng: “Gửi tiền ngân hàng liệu sinh được bao nhiêu tiền lãi?”.

Đúng là: Tự cho mình là thông minh, tự rơi xuống hố do mình đào lên, thật đáng tiếc vậy.

Bất luận mệnh tốt hay xấu, bổ cứu như thế nào nhưng khi đại nạn đến, số kiếp là điều khó tránh. Nếu không mọi người đều tìm cách bổ cứu hết, thế gian nào có sự việc bi thảm?

Tóm lại, đạo bổ mệnh chỉ có thể tìm trong sự sửa chữa sai lầm của chính bản thân mình, đi vào quỹ đạo chính xác, hoặc có thể tránh được đại họa, khiến cho bản thân có được cuộc sống bình thường, hạnh phúc, vui vẻ, Cũng có khi là được xem thế giới biến đổi thế nào, nhìn thấy con cháu ngày trưởng thành, hy vọng được yên lòng nhắm mắt xuôi tay, rời xa người thân, về nơi Tây phương.

Mệnh lý không thể không tin, nhưng cũng không nên quá mê tín. Mê tín khiến cho bản thân mê lầm mà mất đi ý chí kiểm soát.

Con người nếu biết được mệnh của mình không tốt mà có thế tránh xa điều xấu, không làm việc ác, nếu có gặp hung họa cũng không đến nỗi gây họa dẫn đến vong mạng. Nguyên nhân là do được ông trời phù hộ, hoặc chư thần bảo vệ, Bồ Tát siêu độ.

Người biết mệnh mình tốt lại ỷ vào gia thế hiển hách, cậy tiền cậy thế, không từ thủ đoạn làm việc ác, coi người khác không ra gì, làm cho người người phẫn nộ rằng gặp điềm cát cũng không phải là tốt, nhất là đề phòng vui quá hóa buồn, cuối cùng tất sẽ gặp báo ứng

Trời có đạo trời, thần có đạo thần, ai dám hành sự trái với đạo trời sẽ chẳng thể lộng hành được lâu.

(Bát tự luận đoán tuần hoàn – Phan Tử Ngư)

Chuyên mục
Tử Vi

Tại sao biết người đó có tư tình riêng?

Phàm người trong mệnh bàn có tổ hợp các sao dưới đây rất dễ phát sinh chuyện tình cảm vụng trộm, ở ngoài có tình nhân, sinh con riêng:

1. Thiên diêu tọa cụng Mệnh tại chỗ hãm.

2. Thiên diêu, Hồng loan đồng cung.

3. Tham lang, Hồng loan đồng cung.

4. Linh tinh tọa Mệnh tại chỗ hãm.

5. Thiên tướng thêm sát tinh tại cung Tử nữ.

6. Tử vi thêm sát tinh tại cung Tử nữ.

7. Tử vi, Tham lang đồng cung.

8. Tham lang, Đà la đồng cung.

9. Vũ khúc, Tham lang đồng cung.

10. Tham lang. Dương nhẫn đồng cung.

11. Tử vi đồng cung với Tả phù hoặc Hữu bật.

12. Mệnh nam có Thái âm tại chỗ hãm.

13. Liêm trinh, Tham lang thêm sát tinh hoặc tọa cung Thiên di.

14. Thiên diêu tại cung Phúc đức.

15. Hóa kỵ tại cung Phúc đức.

16. Hồng loan và Thiên khôi hoặc Thiên việt đồng cung.

17. Vũ khúc, Phá quân tọa cung Phu thê.

18. Thất sát tọa cung Phúc đức.

19. Thiên lương tại Tỵ, Hợi thêm sát tinh.

20. Nữ mệnh hóa ky tọa Mệnh.

21. Tham lang thêm sát tinh.

22. Cung Tử nữ có hóa kỵ hoặc Tứ sát.

23. Thiên cơ tại cung Tử nữ thêm lục sát tinh.

24. Vũ khúc, Thiên tướng tại cung Tử nữ.

25. Thiên tướng tại cung Tử nữ thêm sát tinh.

26. Thiên lương tại cung Tử nữ.

27. Phá quân độc tọa cung Tử nữ.

28. Mệnh bàn có sao tại cung Nô bộc.

(Lập và giải tử vi đẩu số – Phương pháp đoán mệnh – Phan Tử Ngư)